Kết hôn là sự kiện pháp lý quan trọng, đánh dấu sự xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững. Đây không chỉ là quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ, mà còn là nền tảng của các mối quan hệ gia đình và xã hội.
Khi thực hiện quyền kết hôn, pháp luật quy định một số điều kiện bắt buộc để việc kết hôn hợp pháp, cụ thể: nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; việc kết hôn phải do cả hai bên nam và nữ tự nguyện quyết định, không bị ép buộc hoặc cản trở; người kết hôn không được mất năng lực hành vi dân sự; đồng thời, việc kết hôn không được rơi vào một trong các trường hợp bị pháp luật cấm như đã quy định (khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Các điều kiện này nhằm bảo đảm quyền tự do kết hôn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên và duy trì sự ổn định, lành mạnh của quan hệ hôn nhân.
Đồng thời, căn cứ theo khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về các trường hợp cấm kết hôn như sau:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”
Như vậy, trong các hành vi trên, pháp luật không quy định việc đang chấp hành án phạt tù là căn cứ cấm kết hôn.
Thêm vào đó, tại Điều 36 Hiến pháp 2013 quy định:“Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau” và Luật Thi hành án hình sự 2019 cũng không tước bỏ quyền kết hôn của phạm nhân. Việc chấp hành án phạt tù chỉ hạn chế một số quyền tự do cá nhân như đi lại, giao tiếp, nhưng không hạn chế quyền nhân thân này nếu pháp luật không có quy định cụ thể.
Theo đó, trường hợp một người đang bị giam giữ để chấp hành án phạt tù nhưng đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn thì vẫn có quyền đăng ký kết hôn. Việc thực hiện quyền này cần có sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký hộ tịch và cơ quan quản lý trại giam để đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế thì điều này hiếm khi xảy ra vì thủ tục tiến hành khá phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan và phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an ninh, trật tự trong trại giam. Nhiều trường hợp, người có ý định kết hôn với phạm nhân ngại thực hiện hoặc không nắm rõ quy trình nên không tiến hành. Bên cạnh đó, việc tổ chức đăng ký kết hôn trong trại giam còn phụ thuộc vào kế hoạch, điều kiện cơ sở vật chất và sự chấp thuận của Giám thị trại giam, dẫn đến trên thực tiễn quyền này ít được thực hiện mặc dù pháp luật vẫn cho phép.
Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn:
- Điện thoại: 0912.056.876 (Luật sư Lưu Văn Sáng) – 0964.816.140 (Chuyên viên Ái Ly)
- Website: https://phongphaplyls.com
- Địa chỉ trụ sở: 79/4 Lê Thị Riêng, An Thới, TP. Hồ Chí Minh
