1. Thời hiệu yêu cầu thi hành án là gì?
Căn cứ khoản 5 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy địn:
“5. Thời hiệu yêu cầu thi hành án là thời hạn mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án; hết thời hạn đó thì mất quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án theo quy định của Luật này.”
Như vậy, thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự là khoảng thời gian mà người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành án, hết thời hạn đó thì họ mất quyền yêu cầu thi hành án theo quy định của pháp luật.
2. Thời hiệu yêu cầu thi hành án bao lâu?
Căn cứ Điều 30 Luật Thi hành án dân sự 2008 quy định như sau:
“Điều 30. Thời hiệu yêu cầu thi hành án
1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
2. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.
3. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.”
Theo đó, thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Nếu trong bản án, quyết định có ấn định thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì thời hiệu được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn; đối với nghĩa vụ định kỳ, thời hiệu 05 năm được áp dụng cho từng kỳ tính từ ngày đến hạn. Ngoài ra, thời gian hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án theo quy định không tính vào thời hiệu (trừ khi có sự đồng ý của người được thi hành án). Đặc biệt, trong trường hợp người yêu cầu chứng minh được có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng khiến không thể yêu cầu đúng hạn, thì khoảng thời gian này cũng không tính vào thời hiệu.
3. Những khó khăn trong việc thi hành án dân sự?
Công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi bản án, quyết định của Tòa án, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đương sự cố tình, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ hoặc có hành vi che giấu, chuyển nhượng tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ.
Việc chây ì, không hợp tác làm kéo dài quá trình thi hành án, buộc cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế phức tạp, tốn kém cả về thời gian lẫn chi phí. Không những thế, hành vi tẩu tán hoặc che giấu tài sản còn trực tiếp làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án, đồng thời làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật và niềm tin của xã hội vào hiệu lực của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, việc xác minh và xử lý tài sản để thi hành án cũng gặp nhiều khó khăn.
Nhiều tài sản thuộc diện kê biên đang trong tình trạng tranh chấp, thế chấp hoặc cầm cố tại tổ chức tín dụng; thậm chí có tài sản đứng tên người khác, không thể xác định rõ quyền sở hữu. Không ít trường hợp quyền sử dụng đất, nhà ở chưa được cấp giấy chứng nhận, gây trở ngại cho việc kê biên, định giá và tổ chức bán đấu giá. Hơn nữa, quy trình định giá, đấu giá tài sản trong thực tiễn vẫn còn bất cập, thiếu minh bạch, dẫn đến tình trạng tài sản bán nhiều lần nhưng không có người mua, kéo dài thời gian thi hành án và làm giảm hiệu lực thực tế của bản án.
Thứ ba, cơ chế pháp lý và thủ tục thi hành án dân sự hiện hành vẫn còn những điểm bất cập.
Các quy định pháp luật về thi hành án dân sự đôi khi chưa đồng bộ, còn chồng chéo với quy định của các luật khác như Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng, Luật Nhà ở. Thủ tục thi hành án khá phức tạp, trải qua nhiều bước bắt buộc, dễ phát sinh khiếu nại, tố cáo từ phía đương sự. Đặc biệt, trong một số vụ việc, thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết trong khi tranh chấp vẫn kéo dài, khiến cơ quan thi hành án lúng túng trong quá trình xử lý.
Thứ tư, công tác thi hành án dân sự xuất phát ngay từ phía cơ quan thi hành án.
Thực tế cho thấy, có những trường hợp cơ quan thi hành án chậm trễ hoặc chưa chủ động trong việc tổ chức thi hành án, dẫn đến việc bản án, quyết định của Tòa án dù đã có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn chưa được triển khai trên thực tế. Nguyên nhân có thể do áp lực công việc lớn, biên chế chấp hành viên hạn chế, hoặc do sự e ngại, né tránh khi phải giải quyết những vụ việc phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, làm suy giảm niềm tin của xã hội vào tính nghiêm minh của pháp luật.
Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn:
- Điện thoại: 0912.056.876 (Luật sư Lưu Văn Sáng) – 0964.816.140 (Chuyên viên Ái Ly)
- Website: https://phongphaplyls.com
- Địa chỉ trụ sở: 79/4 Lê Thị Riêng, An Thới, TP. Hồ Chí Minh
