Khi tham gia quan hệ lao động, hợp đồng lao động là sự thỏa thuận ràng buộc giữa người lao động và người sử dụng lao động về công việc, tiền lương, quyền và nghĩa vụ của các bên. Hiện nay, pháp luật Việt Nam cũng quy định nhiều chế độ đặc thù nhằm bảo vệ quyền lợi cho lao động nữ, đặc biệt trong thời gian mang thai, nghỉ thai sản và nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Tùy vào trường hợp, người sử dụng lao động có thể chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu thuộc các căn cứ luật định. Tuy nhiên, đối với lao động nữ đang nghỉ thai sản, pháp luật có quy định cấm người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng (khoản 3 Điều 37 Bộ luật Lao động 2019), trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật (khoản 3 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019).
Trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lao động nữ đang nghỉ thai sản mà không thuộc trường hợp được pháp luật cho phép, hành vi này bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Căn cứ Điều 41 Bộ luật Lao động 2019, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, người sử dụng lao động phải:
- Nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật Lao động 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
- Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định trên thì người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động 2019 để chấm dứt hợp đồng lao động.
- Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
Theo đó, nếu người sử dụng lao động vi phạm quy định bảo vệ lao động nữ trong thời gian nghỉ thai sản, người lao động có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết buộc thực hiện các nghĩa vụ nêu trên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Liên hệ với chúng tôi để được tư vấn:
- Điện thoại: 0912.056.876 (Luật sư Lưu Văn Sáng) – 0964.816.140 (Chuyên viên Ái Ly)
- Website: https://phongphaplyls.com
- Địa chỉ trụ sở: 79/4 Lê Thị Riêng, An Thới, TP. Hồ Chí Minh
